Hiến pháp chính quyền Hiến_pháp

Thường thấy nhất, thuật ngữ "hiến pháp" đề cập đến tập hợp các quy tắc và nguyên tắc quy định bản chất và phạm vi của chính quyền. Hầu hết các chính hiến pháp tìm cách điều chỉnh quan hệ giữa các cơ quan của nhà nước, quan hệ giữa ba bộ phận hành pháp, lập pháptư pháp ở mức độ cơ bản và mối quan hệ giữa các cơ quan thuộc ba bộ phận đó.

Các đặc điểm chính

Các đặc điểm sau đây là đặc điểm của hiến pháp dân chủ đã được các khoa học gia chính trị xác định cho hiến pháp ở phạm vi quốc gia.

Việc soạn thảo

Sự phân loại cơ bản là hiến pháp đã được điều lệ hóa hay không. Một hiến pháp đã được điều lệ hóa là một văn kiện riêng rẽ và là nguồn gốc của luật hiến pháp trong một quốc gia. Một ví dụ thường dùng cho loại này là Hiến pháp Hoa Kỳ. Ngược lại, hiến pháp không được điều lệ hóa là hiến pháp không được chứa đựng trong một văn kiện riêng rẽ và bao gồm nhiều nguồn gốc khác nhau có thể là thành văn hay bất thành văn. Hiến pháp Úc, Hiến pháp Anh là hai ví dụ điển hình của loại này. Hiến pháp Ấn Độ được cho là hiến pháp được điều lệ hóa dài nhất trên thế giới.

Hiến pháp được điều lệ hóa

Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có một hiến pháp được điều lệ hóa trừ ba quốc gia Israel, New ZealandVương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. Hiến pháp được điều lệ hóa thường là sản phẩm của sự thay đổi chính trị lớn như một cuộc cách mạng. Chẳng hạn như hiến pháp của Hoa Kỳ được viết ra và được thông qua không quá 25 năm sau cuộc Cách mạng Hoa Kỳ. Tiến trình một quốc gia thông qua hiến pháp có quan hệ mật thiết với hoàn cảnh chính trị và lịch sử dẫn đến các thay đổi căn bản.

Lợi ích rõ ràng nhất của hiến pháp được điều lệ hóa là có các điều mạch lạc và dễ hiểu. Hiến pháp được điều lệ hóa ít nhất thì cũng dễ đọc và là một văn kiện riêng lẻ. Mặc dầu nó tương đối rõ ràng nhưng hiến pháp được điều lệ hóa vẫn để lại một phạm vi giải thích rộng lớn cho tòa án hiến pháp.

Các quốc gia có hiến pháp được điều lệ hóa thường gán cho nó uy quyền tối cao so với các đạo luật thông thường khác. Đó là, nếu có xung đột xảy ra giữa một đạo luật và hiến pháp thì tất cả hay một phần của đạo luật đó có thể bị tòa án tuyên bố là vượt quyền (ultra vires) và bị cho là vi hiến. Ngoài ra, một thủ tục đặc biệt được yêu cầu để sửa đổi hiến pháp có liên quan đến ⅔ đa số trong cơ quan lập pháp quốc gia, sự đồng ý của các cơ quan lập pháp địa phương, cuộc trưng cầu dân ý hoặc một số thủ tục khác. Điều này làm cho việc sửa đổi hiến pháp khó hơn việc thông qua một luật nào khác.

Hiến pháp không được điều lệ hóa

Chỉ có ba quốc gia là Israel, New Zealand và Anh dùng hiến pháp không được điều lệ hóa (tính đến tháng 10 năm 2006).

Ở những quốc gia sử dụng hiến pháp không được điều lệ hóa, không có sự khác biệt giữa (luật) hiến pháp và các đạo luật (như luật áp dụng cho các khu vực cai quản) trong thuật ngữ pháp lý. Cả hai có thể bị thay thế hoặc loại bỏ bởi đa số trong nghị viện. Trên thực tế, các chính phủ dân chủ không dùng cơ hội này để bãi bỏ tất cả các quyền công dân mà trên lý thuyết họ có thể làm như vậy.

Xem thêm: Các luật chính của Anh

Sự phân bổ quyền lực

Hiến pháp cũng thiết lập quyền lực trong một nước. Có hai loại phân bổ quyền lực cơ bản là: liên bang và nhất thể. Hệ thống chính quyền liên bang có hiến pháp công nhận sự phân chia quyền lực giữa trung ương và địa phương trong một quốc gia. Hiến pháp Canada là một ví dụ điển hình, đó là sự phân chia quyền lực giữa chính phủ liên bang và các tỉnh bang. Hiến pháp nhất thể công nhận quyền lực chỉ tồn tại ở trung ương. Anh là một trong những nước sử dụng loại hình này.

Sự phân tách quyền lực

Hiến pháp thường biến đổi lớn theo mức độ phân tách quyền lực, thông thường là sự phân tách của các bộ phận hành pháp, lập pháp và tư pháp của chính quyền. Hiến pháp Hoa Kỳ có sự phân tách quyền lực đầy đủ vì với mỗi bộ phận đều có quyền được giao cụ thể. Ví dụ, Quốc hội, cơ quan lập pháp Hoa Kỳ có quyền buộc tội (các quan chức) mà các bộ phận khác không có quyền.

Giới hạn trách nhiệm

Giới hạn trách nhiệm là một đặc điểm chung của tất cả các hiến pháp dân chủ. Ở hệ thống chính phủ tổng thống, như Hoa Kỳ và hệ thống bán tổng thống, như Pháp, các bộ trưởng có trách nhiệm với tổng thổng, người có quyền bảo trợ để chỉ định hay sa thải bộ trưởng. Tổng thống có trách nhiệm với nhân dân trong một cuộc bầu cử. Trong hệ thống nghị viện, như Anh và Úc, các bộ trưởng có trách nhiệm với nghị viện nhưng thủ tướng lại bổ nhiệm hay sa thải họ (ở hệ thống Westminster, quyền này xuất phát từ quốc vương, thành viên của nghị viện). Cũng có khái niệm về việc bỏ phiếu bất tín nhiệm ở nhiều nước theo chế độ nghị viện, điều này có nghĩa là nếu đa số trong bộ phận lập pháp bỏ phiếu cho cuộc vận động bất tín nhiệm thì chính phủ phải từ chức, và một chính phủ mới sẽ được thành lập hoặc nghị viện sẽ bị giải tán và cuộc tổng tuyển cử sẽ diễn ra.

Hiến pháp hình thức

Nhà lý luận chính trị Ý Giovanni Sartori cho rằng sự tồn tại của hiến pháp là vẻ ngoài của nguồn quyền hành độc đoán. Trong khi các tài liệu như vậy diễn tả sự tôn trọng nhân quyền hay thiết lập một bộ máy tư pháp độc lập, thì trong thực tế chúng có thể bị làm ngơ một khi nhà cầm quyền cảm thấy bị đe dọa hay hoàn toàn bị sỉ nhục. Một ví dụ điển hình là Hiến pháp Liên Xô, trên văn bản thì đảm bảo quyền tự do lập hội hay quyền tự do ngôn luận nhưng trên thực tế, công dân nếu làm như vậy thì họ sẽ bị bỏ tù (tù nhân chính trị). Ví dụ đó cho thấy rằng sự bảo vệ và lợi ích mà hiến pháp đem lại ít hơn thông qua những điều khoản được thảo ra, nhưng đem lại nhiều cho chính quyền theo nguyên tắc của họ.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Hiến_pháp http://www.concourt.am/wwconst/constit/italy/italy... http://www.aph.gov.au/senate/general/constitution/ http://www.fed-parl.be/constitution_uk.html http://www.senate.be/deutsch/const_de.html http://www.senate.be/doc/const_fr.html http://www.senate.be/doc/const_nl.html http://www.parliament.bg/?page=const&lng=bg http://www.parliament.bg/?page=const&lng=en http://www.planalto.gov.br/CCIVIL_03/Constituicao/... http://laws.justice.gc.ca/en/const/index.html